Ông Huỳnh Thế Du - Giám đốc Đào tạo Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright.
Sau hơn 10 năm gia nhập WTO, ông Huỳnh Thế Du cho rằng, đây là thời điểm Việt Nam cần đánh giá lại bước hội nhập này để có bước đi cần thiết.
Sau gia nhập WTO, có ý kiến đánh giá Việt Nam đã không may vì phải chịu tác động khủng hoảng toàn cầu... Tuy nhiên, ông Du cho rằng, rắc rối hiện nay của Việt Nam chủ yếu là do các vấn đề nội tại.
Một trong những vấn đề chính là khu vực trong nước đã từ bỏ việc tận dụng lợi thế, tập trung cho sản xuất kinh doanh sang đầu cơ tài sản trong bối cảnh “căn bệnh Hà Lan” đã làm tổn hại nghiêm trọng sức cạnh tranh của khu vực sản xuất.
Kỳ vọng quá mức
Ông Huỳnh Thế Du cho biết, trước khi gia nhập WTO, kinh tế Việt Nam đã đạt được những sự cải thiện đáng kể, nhất là sau khi Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA) được ký kết và có hiệu lực từ năm 2001.
Nhiều doanh nghiệp tập trung vào hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra các sản phẩm hay dịch vụ thực cho xã hội đã ăn nên làm ra với suất sinh lợi khá cao (vài chục phần trăm).
Theo ông Du, đây chính là nền tảng tạo ra mức tăng trưởng kinh tế 7-8% cho Việt Nam.
Khi gia nhập WTO, hầu hết người dân Việt Nam cũng như nhiều nhà đầu tư nước ngoài kỳ vọng các cơ hội sẽ được hiện thực hóa và Việt Nam sẽ có được tốc độ tăng trưởng kinh tế khả quan hơn.
Những khoản tiết kiệm trong nước được mang ra cùng với một dòng vốn khổng lồ chảy vào Việt Nam đón đầu cơ hội. Chỉ trong mấy tháng, chỉ số chứng khoán VN-Index đã tăng gần bốn lần và trong vòng hơn một năm, giá bất động sản cũng có mức tăng tương tự.
“Điều này có nghĩa rằng, nền kinh tế Việt Nam được kỳ vọng sẽ “nở ra” nhanh chóng, trong một tương lai thấy trước”, ông Du cho biết.
Tuy nhiên theo vị chuyên gia này, giá như các doanh nghiệp tận dụng tốt cơ hội mở cửa, tiếp tục tập trung vào hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm thì kỳ vọng sẽ thành hiện thực.
Tuy nhiên, “điều không may” là hành vi của các doanh nghiệp và nhà đầu tư đã thay đổi. Nếu tiếp tục tập trung vào hoạt động kinh doanh thì suất sinh lợi chỉ là hàng chục phần trăm, trong khi đầu tư vào các tài sản như cổ phiếu và bất động sản thì con số có thể là hàng trăm, thậm chí hàng nghìn phần trăm.
“Khó có ai có thể cưỡng lại cám dỗ. Giá cổ phiếu và bất động sản tăng là thật, và lãi là thật. Nhiều người đã “nhảy” vào chứng khoán và bất động sản, mà nói chính xác là đi đầu cơ tài sản”, ông Du nói.
Nhiều người không "chí thú làm ăn" như trước, thay vào đã “nhảy” vào bất động sản để đầu cơ kiếm lời...
Theo ông Du, sự chuyển hướng đồng loạt đã tạo ra cầu đột biến cả về hàng hóa và nguồn nhân lực trong khu vực tài sản. Việc kiếm tiền quá dễ dàng làm cho việc trả lương và chi tiêu trở nên hào phóng hơn.
“Lúc này mọi người chỉ tập trung vào việc mua mua – bán bán, chứ không còn “chí thú làm ăn”. Những cơ hội đã không được tận dụng, trong khi rắc rối ngày một nhiều hơn và để lại hậu quả ngày hôm nay”, ông Huỳnh Thế Du nhận định.
Thêm dầu vào lửa
Ông Huỳnh Thế Du cho rằng, sau khi gia nhập WTO, kinh tế Việt Nam đã bị nhiễm “căn bệnh Hà Lan” mà nó được hiểu là dòng vốn lớn chảy vào làm đồng tiền trong nước lên giá dẫn đến hàng hóa sản xuất trong nước trở nên đắt đỏ hơn so với các nước khác.
Nghiêm trọng ở chỗ là sự bất hợp lý trong các chính sách vĩ mô trong thời gian qua đã làm cho căn bệnh này trở nên trầm trọng hơn. Trong số này, việc “cố gắng” ổn định tỷ giá trong bối cảnh lạm phát cao được ông Du ví như “cú đánh kép” vào khu vực sản xuất trong nước.
Trong gian đoạn 2006-2012, mức giá chung của cả nền kinh tế Việt Nam đã tăng gấp đôi, tỷ giá tiền đồng so với USD chỉ tăng 30% đã làm cho các sản phẩm nhập vào Việt Nam (máy tính, điện thoại của Apple chẳng hạn) rẻ hơn, trong khi gạo hay các sản phẩm khác của ta đắt đỏ hơn.
“Do vậy, không có gì ngạc nhiên khi mà rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam gặp khốn khó trong hoạt động sản xuất kinh doanh buộc phải đóng cửa hay phá sản, cho dù họ không hề có những hoạt động đầu cơ tài sản”, ông Du nhận định.
Một nghiên cứu của chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright chỉ ra rằng, ba trong bốn động cơ của cỗ máy tăng trưởng Việt Nam gồm: khu vực kinh tế nhà nước, khu vực kinh tế dân doanh và khu vực nông nghiệp đang gặp trục trặc.
Chỉ có một ngoại lệ là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) vẫn đang ăn nên làm ra, do họ đã tận dụng được những lợi thế của nền kinh tế Việt Nam và miễn nhiễm được với những tác động tiêu cực.
Vậy cần phải làm gì?
Ông Huỳnh Thế Du nhận định, nhiều doanh nghiệp đang rơi vào tình thế “tiến thoái lưỡng nan”. Nếu buông các hoạt động đầu cơ để tập trung vào hoạt động kinh doanh cốt lõi (ví dụ dịch vụ taxi chẳng hạn) thì sẽ tạo ra giá trị gia tăng cho xã hội.
Tuy nhiên, khi đó phần mất từ hoạt động đầu cơ sẽ cao hơn rất nhiều, phần được từ hoạt động kinh doanh, và chủ doanh nghiệp có khả năng sẽ trắng tay.
Do vậy, hành vi hợp lý của nhiều doanh nghiệp là tiếp tục tập trung nguồn lực để duy trì các hoạt động có tính đầu cơ với hy vọng thị trường tài sản sẽ “nóng” trong tương lai để không chỉ tránh được tán gia bại sản mà còn có cơ hội làm giàu trở lại.
“Một người đã khẳng định được tên tuổi trong ngành tài chính cho rằng có khi Việt Nam phải mất cả một thế hệ doanh nhân nữa may ra mới làm lại được”, ông Huỳnh Thế Du chia sẻ.
Theo vị chuyên gia Fullbright, những nhận định của ông không có ý phủ nhận vai trò của FDI cũng như chỉ trích các doanh nghiệp ăn nên làm ra nhờ biết tận dụng các lợi thế hay cơ hội một cách chính đáng.
Thay vào đó, bài viết chỉ nêu ra vấn đề tại sao những trục trặc đối với nền kinh tế nội tại lại xảy ra và tại sao khu vực kinh tế trong nước không thể gặt hái được thành công như kỳ vọng.
Nhìn từ góc độ quản lý vĩ mô, ông Du cho biết, có hai vấn đề rất đáng lưu tâm. Thứ nhất, chi tiêu ngân sách đã không được kiểm soát hợp lý dẫn đến thâm hụt lớn và nợ công tăng cao. Thứ hai, Nhà nước không thể kiểm soát được hệ thống tài chính và một số doanh nghiệp đã làm gì. Hậu quả là những nguồn lực rất lớn đã bị lãng phí và các cơ hội đã không thể được tận dụng.
Do vậy, trong bối cảnh này, chuyên gia Huỳnh Thế Du cho rằng, Nhà nước chỉ nên tập trung ổn định vĩ mô, cải thiện môi trường kinh doanh và tạo sân chơi bình đẳng thay vì có sự tham gia một cách chủ động như thời gian qua.
“Nhà nước cần tránh việc làm thay thị trường và cần thiết tạo môi trường cho xã hội dân sự phát triển nhằm kiềm chế sự cấu kết giữa các doanh nhân (những người có tiền) và một số quan chức nhà nước (những người có quyền), tạo ra các quan hệ thân hữu, lợi ích nhóm”, ông Du khuyến nghị.
Nguyễn Khánh (lược ghi)
Tag :kinh tế Việt Nam, cỗ máy tăng trưởng, doanh nghiệp Việt Nam, Huỳnh Thế Du, gia nhập WTO, bất động sản
Nguồn: dantri.com.vn
0 nhận xét:
Đăng nhận xét